Độ dài của luận văn
Sản phẩm cuối cùng của luận văn là một bài viết có độ dài tối đa 14.000 chữ.

Giới hạn về độ dài của luận văn không bao gồm các trang bìa, lời cam đoan, mục lục, danh mục từ viết tắt, danh mục bảng, hình vẽ và hộp, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

https://forum.category5.tv/thread-331.html

Soạn thảo văn bản

Luận văn sử dụng những định dạng soạn thảo văn bản như sau:

Kiểu chữ Times New Roman, cỡ 12 của phần mềm Microsoft Word hoặc tương đương
Mật độ chữ bình thường, không nén hoặc kéo dãn khoảng cách giữa các chữ
Các dòng được cách ở chế độ 1,5 dòng
Căn lề bên trên 3,5 cm, lề dưới 3 cm, lề phải 2 cm và lề trái 3,5 cm
Số trang đánh ở giữa, phía trên đầu trang giấy.
Luận văn được in trên một mặt giấy trắng khổ A4 (210 x 297 mm).

Tổ chức chương, mục và tiểu mục

Luận văn phải bao gồm các phần sau:

Trang bìa gồm bìa ngoài và bìa trong
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt (nếu có)
Danh mục các bảng, hình vẽ và hộp (nếu có)
Các chương
Tài liệu tham khảo
Phụ lục (nếu có)
Các chương là phần chính của luận văn. Các chương được sắp xếp và đánh số theo thứ tự chương 1, chương 2,…

Mỗi chương của luận văn được tổ chức thành các mục với mỗi mục có thể gồm các tiểu mục. Các mục và tiểu mục của luận văn được trình bày và đánh số theo nhóm chữ số với chữ số thứ nhất là chỉ số chương.

Ví dụ: 3.2.1 chỉ tiểu mục 1, mục 2 của chương 3.

Học viên cần lưu ‎ý ‎không sử dụng quá nhiều cấp tiểu mục (nhiều nhất là 5 cấp ứng với 5 chữ số và đảm bảo mỗi nhóm mục/tiểu mục có ít nhất 2 mục/tiểu mục.

Tổ chức bảng biểu, hình vẽ, công thức và hộp thông tin

Học viên được khuyến khích sử dụng bảng, hình vẽ, công thức và/hay hộp trong luận văn để trình bày thông tin và hỗ trợ cho việc mô tả, phân tích trong bài được sắc nét và súc tích. Bảng gồm có bảng số liệu và bảng tóm tắt thông tin. Hình vẽ gồm đồ thị, sơ đồ và hình ảnh. Công thức là hình thức biểu thị thông tin bằng k‎ý hiệu, đặc biệt là để biễu diễn các mối quan hệ định lượng. Hộp là thông tin về một ví dụ hay tình huống cụ thể được trình bày trong một hộp hay khung.

Học viên cần trình bày bảng, hình vẽ, công thức và hộp một cách có tính chuyên nghiệp cao. Thông tin có chú thích đầy đủ. Số liệu được định dạng đúng chuẩn của ngôn ngữ sử dụng trong luận văn. Đặc biệt, các hình thức trình bày này phải gắn kết với việc mô tả và phân tích trong bài.

Học viên cần tránh đưa vào các biểu hay đồ thị mà không có liên hệ gì tới văn viết trong bài. Học viên cũng cần cân nhắc giữa việc trình bày các bảng, hình vẽ và phương trình trong các chương hay trong phụ lục của luận văn. Thông thường, những bảng, hình vẽ và phương trình để minh họa trực tiếp cho các phân tích thì nên được đưa vào ngay trong chương, còn những gì minh họa gián tiếp hay có mức độ thông tin chi tiết cao thì nên được đưa vào phần phụ lục.

Bảng, hình vẽ và hộp cần phải có tiêu đề được ghi ở phía trên. Việc đánh số bảng, hình vẽ, phương trình và hộp phải gắn với số chương.

Ví dụ: Hình 3.4 có nghĩa là hình thứ 4 trong chương 3

Thu nhap = β0 + β1Tin dung + ε (2.3) có nghĩa là phương trình thứ 3 trong chương 2.

Các bảng và hình vẽ nếu do học viên tính toán/vẽ dựa vào một nguồn thông tin khác thì phải trích dẫn nguồn đầy đủ.

Ví dụ: Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2008.

Các bảng và hình vẽ nếu sao chép nguyên vẹn từ một nguồn khác thì phải trích dẫn nguồn trong đó nêu rõ là được sao chép nguyên vẹn.

Ví dụ: Nguồn: Lấy từ MVA Asia (2005), Bảng 3.1, trang 25.

Các bảng và hình vẽ nếu do học viên tự tính toán/vẽ thì không cần đề nguồn hoặc ghi nguồn là tác giả tự tính toán/vẽ.

Tất cả những nguồn được trích dẫn tại các bảng, hình vẽ, phương trình và/hay hộp phải được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo.

Nếu luận văn có nhiều bảng, hình vẽ và hộp, thì nên có danh mục bảng, hình vẽ và hộp ở sau phần mục lục.

Viết tắt

Không nên lạm dụng viết tắt trong luận văn. Chỉ viết tắt những từ, cụm từ thông dụng và được sử dụng nhiều lần trong luận văn. Nếu luận văn có nhiều chữ viết tắt thì phải có bảng danh mục các chữ viết tắt (xếp theo thứ tự ABC) đặt ở phần đầu luận văn. Khi sử dụng chữ viết tắt lần đầu tiên cho một từ/cụm từ thì từ/cụm từ phải được viết đầy đủ rồi trình bày chữ viết tắt trong ngoặc đơn ngay sau đó.

Ví dụ: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hệ thống giao thông công cộng ở Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM). Hệ thống giao thông công cộng ở TP.HCM hiện nay chỉ có xe bu‎ýt. Theo Quy hoạch tổng thể giao thông trên địa bàn TP.HCM đến năm 2020, hệ thống metro và xe điện sẽ được phát triển.

Trích dẫn tài liệu tham khảo

Mọi thông tin trình bày trong luận văn không phải của riêng học viên mà từ tác giả khác đều phải được trích và dẫn nguồn. Kiến thức phổ biến mà mọi người đều biết thì không cần trích dẫn.

Việc dẫn nguồn có thể được thực hiện ngay trong bài viết hay dưới dạng chú thích ở dưới trang. Tuy nhiên, khi đã sử dụng cách dẫn nguồn nào thì phải sử dụng nhất quát trong toàn bộ luận văn. Nguyên tắc dẫn nguồn là sử dụng tên tác giả, năm công bố và nếu có thể là cả số trang của tài liệu. Thông tin đầy đủ của nguồn trích dẫn sẽ được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo ở cuối luận văn.

Đối với nguồn là tài liệu tiếng Việt, họ và tên tác giả cần được dẫn.

Ví dụ: Hoàng Tụy (2007, tr.36).

Đối với nguồn là tài liệu tiếng nước ngoài, chỉ cần dẫn họ của tác giả.

Ví dụ: North (1990, tr.12).

Khi thông tin được chép nguyên văn từ một nguồn khác thì toàn bộ thông tin chép nguyên văn này phải được đưa vào trong ngoặc kép, có thể lùi vào một khổ và giảm cỡ chữ, rồi dẫn nguồn ở cuối.

Ví dụ: "…Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức tính căn bản: Cần, Kiệm, Liêm, Chính."

Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 510.

Khi thông tin trong luận văn được học viên viết bằng lời văn của mình, nhưng ý‎ tưởng được lấy từ nguồn khác thì phải được dẫn nguồn trực tiếp ngay trong câu văn hay gián tiếp ở sau câu văn.

Ví dụ về dẫn nguồn trực tiếp:

Võ Thị Thanh Lộc (2008) cho rằng chuỗi giá trị cá tra gồm có sáu chức năng: chức năng đầu vào cung câp cá giống, chức năng sản xuất, chức năng trung gian thu gom cá từ thương lái cho chủ vựa, chức năng chế biến cá nguyên liệu thành các sản phẩm phi-lê, chức năng xuất khẩu và bán nội địa, và chức năng tiêu dùng.

Ví dụ về dẫn nguồn gián tiếp:

Dự báo hành khách trong Dự án đường sắt cao tốc đã được tính ở mức quá cao (Huỳnh Thế Du, 2010).

Khi học viên trích dẫn ý tưởng của một tác giả, mà ý tưởng này được trích dẫn từ một tác giả khác thì nguồn phải được dẫn bằng cách nêu tên tác giả của công trình gốc (mà học viên không được đọc), sau đó ghi trích trong công trình mà học viên được đọc.

Ví dụ: Hendry, 1996, trích trong Connor, 1999.

Danh mục tài liệu tham khảo
Tài liệu tham khảo được xếp riêng theo từng ngôn ngữ (Việt, Anh, Pháp, Đức, Nga, Trung, Nhật…). Các tài liệu bằng tiếng nước ngoài phải giữ nguyên văn, không phiên âm, không dịch, kể cả tài liệu bằng tiếng Trung Quốc, Nhật…(đối với những tài liệu bằng ngôn ngữ còn ít người biết có thể thêm phần dịch tiếng Việt đi kèm theo mỗi tài liệu).

Tài liệu tham khảo được xếp theo thứ tự ABC tên tác giả theo thông lệ của từng nước như sau:

Tác giả nước ngoài được xếp thứ tự ABC theo họ.
Tác giả Việt Nam được xếp thứ tự ABC theo tên nhưng vẫn giữ nguyên thứ tự thông thường của tên người Việt Nam, không đảo tên lên trước họ.
Tài liệu không có tên tác giả thì xếp theo thứ tự ABC chữ đầu của tên cơ quan ban hành. Ví dụ: Tổng cục Thống kê xếp vào vần T.
Tài liệu tham khảo là sách hay báo cáo phải ghi các thông tin theo trình tự sau:

Tên các tác giả hoặc cơ quan ban hành
Năm xuất bản/công bố (đặt trong ngoặc đơn)
Tên sách hoặc báo cáo (in nghiêng)
Nhà xuất bản (nếu có)
Nơi xuất bản (nếu có).
Ví dụ:

North, Douglass C. (1990), Institution, Institutional Change and Economic Performance, Cambridge University Press.

Tài liệu tham khảo là bài viết trong tạp chí hay chương trong một cuốn sách phải ghi các thông tin theo trình tự sau:

Tên các tác giả
Năm xuất bản/công bố (đặt trong ngoặc đơn)
Tên bài viết/chương (đặt trong ngoặc kép, không in nghiêng)
Tên tạp chí/ sách (in nghiêng)
Tập (nếu có)
Số (đặt trong ngoặc đơn) (nếu có)
Số trang (gạch ngang giữa trang bắt đầu và trang kết thúc).
Ví dụ:

Demirgüç-Kunt, Asli and Maksimovic, Vojislav (1998), "Law, Finance, and Firm Growth," Journal of Finance, Vol. 53, pp. 2107-2139.

Đối với tài liệu tham khảo là sách của nhiều tác giả nhưng có chủ biên, thì tên tác giả được ghi như sau: họ và tên chủ biên và đồng tác giả.

http://forum.elektor.com/viewtopic.php?f=2698569&t=2717553&p=2748876#p27488 76